Monday, June 21, 2021

Ngũ Giới. Giới, sila, là quy luật. Sila, giới luật trong Phật Giáo, được xem là quy luật tu học, là những lời khuyên dạy nên thận trọng canh phòng để ngăn ngừa hiểm họa. Trì giới là nghiêm chỉnh tự khép mình vào khuôn khổ kỹ cương, là tự nguyện gói ghém cuộc sống của mình theo mẫu mực đạo đức, luân lý. Trong tinh thần Phật Giáo, giới không phải là những điều răn hay những giới cấm mà Đức Phật ban truyền và bắt buộc hàng tín đồ phải tuân hành, ai theo đúng thì được ban thưởng, còn ai không theo thì bị hành phạt. Đức Phật không bao giờ tuyên lệnh, bắt buộc hàng tín đồ phải làm điều này hay cấm cản không cho làm điều kia. Phật giáo không quan niệm có sự ban thưởng hay răn phạt mà chỉ dạy lý nghiệp báo, tức định luật nhân quả: gieo giống nào thì gặt giống nấy. Gieo cam sẽ có trái cam, gieo ớt sẽ gặt ớt. Cây cam trổ sanh trái cam ngon ngọt, không phải để thưởng công người trồng nó. Cùng thế ấy, cây ớt trổ trái ớt cay cũng không phải để phạt người trồng. Ta làm điều lành, hành động thiện ấy là nhân tốt, sẽ đem lại cho ta hậu quả tốt. Ta làm điều ác, hành động bất thiện ấy sẽ đem lại cho ta hậu quả xấu. Cái tốt hay cái xấu, hạnh phúc hay đau khổ, đến với ta như là hậu quả đương nhiên của những hành động mà ta đã làm trong quá khứ -- xuyên qua thân, khẩu hay ý -- chớ không phải do sự thưởng hay phạt của Đức Phật hay của vị Thần Linh nào. Kinh điển chép rằng vào canh hai trong đêm Thành Đạo, với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Đức Phật nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào một kiếp sống khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người khốn khổ, tất cả đều trải qua tình trạng sanh và diệt, diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người. Ngài biết rằng những người này, do hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện, xấu xa, nguyền rủa bậc Thiện Trí Cao Thượng, không có niềm tin chân chánh mà mãi sống trong tà kiến, sau khi chết đã tái sanh vào những trạng thái bất hạnh. Ngài biết rằng những người kia, do hành động, lời nói và tư tưởng trong sạch, sau khi chết đã tái sanh vào những cảnh giới nhàn lạc, an vui hạnh phúc. Như vậy, Đức Phật truyền dạy những gì chính tuệ nhãn Ngài đã chứng kiến. Ngài thấy rõ những tai hại của hành động bất thiện và những lợi ích của hành động thiện. Nhân quả, nghiệp báo, là định luật thiên nhiên, không phải do Đức Phật tạo ra. Dầu Đức Phật có thị hiện trên thế gian cùng không vẫn có nhân quả và nghiệp báo. Đức Phật chỉ khám phá, rọi sáng cho thế gian và khuyên chúng sanh nên sống như thế nào để điều hợp với những định luật thiên nhiên ấy. Và Ngài đặt ra những quy tắc đạo đức và luân lý để giúp chúng sanh nương theo đó mà trau giồi đạo hạnh và tiến hóa. Người Phật tử không bị bắt buộc phải tuân hành những giới luật, xem đó là những điều "răn cấm", mà hoàn toàn tự do chọn lựa con đường của mình. Đức Thế Tôn dạy rằng chư Phật chỉ là những vị Đạo Sư đã tìm ra Con Đường, đã vẻ vang thành công trải qua Con Đường và từ bi chỉ vạch Con Đường cho thế gian mê muội, cho những ai vui lòng bước theo dấu chân các Ngài. Có những hiểm họa dài theo Con Đường mà nếu lơ đễnh khách lữ hành chắc chắn sẽ sa chân lỡ bước và sẽ không đi được đến nơi đến chốn. Giới, sila, có tác dụng như những tấm bảng màu đỏ dựng lên bên đường, những cảnh hiệu để báo tin rằng sắp có hiểm họa mà người đi đường nên tránh. Đàng khác, giới cũng là nếp sống kỷ cương được xem như những tảng đá vững chắc cẩn trên Con Đường đưa đến thanh bình an lạc hoàn toàn, hạnh phúc tuyệt đối. Năm Giới Căn Bản Người đã tự nguyện trở về nương tựa nơi Tam Bảo và đặt mình dưới sự hướng dẫn của Phật, Pháp, Tăng cũng hàm ý là tự nguyện sẵn sàng khép mình vào khuôn khổ của Giới Luật. Đối với hàng tại gia cư sĩ, có năm giới căn bản là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không dùng chất say. Kinh Pháp Cú dạy: "Kẻ nào sát sanh, vọng ngữ, lấy của người mà không được cho, lân la vợ người và dễ duôi dùng chất say, kẻ ấy đào lỗ, tự chôn gốc rễ trên thế gian này". (Câu 246, 247) Trong câu này, "đào lỗ tự chôn gốc rễ trên thế gian" có nghĩa là chôn sâu gốc rễ, bám chặt vào thế gian, tức không bao giờ thoát ra khỏi thế gian dẫy đầy đau khổ này. Và câu 248 dạy rằng: "Này hởi con người tốt! Nên biết như vầy: Tự chế phục để tránh làm ác không phải là điều dễ làm. Chớ nên để tham ái và sân hận lôi cuốn vào cảnh khổ triền miên". Đức Phật khuyên dạy nên cố tránh những hành động tạo nghiệp bất thiện kể trên nhằm tự rút dần, thoát dần ra khỏi vòng quanh những kiếp sinh tồn. 1) Không Sát Sanh. Câu kinh đọc tụng để phát nguyện gìn giữ giới này là: Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh (Panatipata veramani sikkhapadam samadiyami). Không sát sanh là không cố ý cắt đứt, ngăn chặn, tiêu diệt hay làm cản trở sức tiến triển của năng lực đời sống, không cho nó liên tục trôi chảy. Không sát sanh cũng là không làm tổn thương sự sống của bất luận sinh vật nào, và không sai biểu, xúi giục hay quyến dụ người khác làm những điều ấy. Đức Phật dạy: "Ai cũng run sợ trước gậy gộc. Tất cả đều quý trọng mạng sống. Hãy lấy bụng ta suy lòng người. Không nên giết, cũng không nên làm cách nào cho người khác giết". (Kinh Pháp Cú, câu 129) Ngày nọ, khi Đức Thế Tôn vào thành Savatthi (Xá Vệ) để trì bình thì thấy một nhóm trẻ con cầm gậy xúm lại đập một con rắn nước. Ngài dừng lại hỏi: - Này các con, các con đang làm gì đó? - Bạch Ngài, chúng con đang đập một con rắn. - Tại sao các con đập nó? - Bạch Ngài, vì các con sợ nó cắn. Đức Phật mở lời khuyên dạy: "Trong khi các con làm đau đớn con rắn, hãy nghĩ đến chính các con. Hành động hung bạo này sẽ làm tổn thương đến hạnh phúc của các con trong tương lai. Người nào muốn tìm hạnh phúc cho mình, chớ nên đánh đập kẻ khác". Và Ngài dạy: "Kẻ nào mưu tìm hạnh phúc cho chính mình bằng cách hành hạ chúng sanh khác -- cũng ưa thích an lạc -- kẻ ấy sẽ không được hạnh phúc". (Kinh Pháp Cú, câu 131) Theo người đời đi săn bắn, chim chóc hay thú rừng, cũng như buông câu bắt cá, đều là những món tiêu khiển nhàn lạc và thanh nhã. Nhưng nếu chúng ta bình tâm suy tư, nghĩ rằng chim, cá, hay thú rừng đều là những người bạn đồng hành với chúng ta trong đại trùng dương của đời sống, và những người bạn xấu số ấy cũng quý trọng mạng sống như chúng ta, thì dầu để bày tiệc hỷ hạ linh đình hay để tiêu khiển thì giờ mà ta đành nhẫn tâm làm đau khổ một chúng sanh thì hẳn là thiếu tâm từ, tâm bi! Vả lại hạnh động kém từ ái và bi mẫn này sẽ đem lại cho ta những hậu quả vô cùng tai hại, trong nhiều ngày vị lai. Ngày nọ có chàng thanh niên tên Subha, thắc mắc trước những trạng huống dị đồng giữa loài người, muốn tìm chân lý, bạch hỏi Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, vì lý do nào và do nguyên nhân nào mà trong đời có người yểu và có người thọ, người thì mạnh khỏe cường tráng còn kẻ lại đau ốm bệnh hoạn ...?" Đức Phật vắn tắt giải đáp: "Tất cả chúng sanh đều mang theo cái nghiệp (kamma) của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng -- biệt nghiệp -- của mỗi người mỗi khác nên hoàn cảnh của mỗi người mỗi khác và do đó, có cảnh dị đồng giữa chúng sanh". Rồi Ngài giải thích cho Subha từng trường hợp: "Nếu có người kia suốt đời chỉ biết sát sanh, người thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn đẫm máu, hằng ngày sống trong sự giết chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát ấy, nếu tái sanh vào cảnh người, người ấy sẽ là người "yểu". "Nếu người kia luôn luôn thận trọng, không hề xúc phạm đến mạng sống của ai, sống xa gươm đao giáo mác và các loại vũ khí, lấy lòng từ ái đối xử với tất cả chúng sanh. Do tâm từ ái, tự chế không sát sanh ấy, nếu tái sanh vào cảnh người, người ấy sẽ "thọ". "Nếu người kia độc ác, luôn luôn tìm cách hại người, luôn luôn dùng đấm đá và gươm đao đối xử với mọi người. Do nết hung hãn dữ dằn ấy nếu tái sanh vào cảnh người, người ấy sẽ ươn yếu bệnh hoạn". "Nếu người kia không làm tổn thương ai khác. Do đức tính hiền lương nhu hòa ấy nếu tái sanh làm người, người ấy sẽ cường tráng khỏe mạnh ..." (Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, bài số 153) Có năm chi để tạo nghiệp sát sanh là: 1. Có một chúng sanh, 2. Biết rằng đó là một chúng sanh, 3. Sanh tâm muốn giết, 4. Cố gắng để giết, và 5. Hành động giết chết. Nghiệp dữ do hành động sát sanh nặng hay nhẹ tùy sự quan trọng của chúng sanh bị giết như lành hay dữ, lớn hay nhỏ, v.v... Giết một bậc vĩ nhân hiền đức ắt tạo nghiệp nặng hơn là giết một tên sát nhân hung dữ. Làm chết một con thú to lớn tạo nghiệp nặng hơn là giết một con thú bé nhỏ, vì sự đắn đo toan tính và sự cố gắng để thực hiện hành động sát sanh cũng như tai họa gây ra do hành động sát sanh là quan trọng hơn. Kinh Pháp Cú, câu 137-140, dạy như sau: "Kẻ dùng gậy gộc gây tổn hại cho người vô hại và không gậy gộc (những vị hiền lương vô tội, như một vị Thánh Nhân chẳng hạn, và vị này không có khí giới), kẻ ấy sớm phải chịu những cảnh sau đây: "Đau đớn nhức nhối vô cùng, tai biến khốc liệt, mình mẩy bị thương tích hay lâm trọng bệnh, hay loạn tâm mất trí, hay bị hiếp đáp, bị đàn áp, hay bị kết trọng tội, hay ly tán thân quyến, hay bị tiêu diệt tài sản, hay bị lửa thiêu nhà cửa -- và khi cơ thể này hoại diệt con người thiển trí như thế sẽ tái sanh vào khổ cảnh". Một khi nhân đã gieo rồi thì quả đương nhiên ắt sẽ trổ, sớm hay chầy, nơi này hay nơi khác. Theo đúng giáo huấn của Đức Bổn Sư, không thể van lơn cầu cạnh, hối lộ hoặc gian lận bằng cách nào mà ta có thể biến đổi định luật nhân quả, cũng không thể lẫn trốn nơi nào, dầu trên trời lồng lộng mênh mông, giữa đại dương sâu thẳm hoặc ở thâm sơn cùng cốc mà ta có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp bất thiện đã tạo. Không có vị Trời nào, chí đến Đức Phật đi nữa, có thể can thiệp vào và đổi thay sự báo ứng của nghiệp. Vào thủa nọ Đức Tôn Sư ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá. Có một nhóm tỳ khưu, trên đường về hầu Ngài, ghé vào làng nọ để trì bình. Dân chúng trong làng hoan hỷ nghênh đón, rước bát, dọn chỗ ngồi và thỉnh các Sư vào lưu ngụ trong nhà khách. Họ dọn cháo thỉnh các Ngài điểm tâm và trong khi chờ đợi nấu nướng cho thời ngọ, họ ngồi lại để nghe chư Sư thuyết giảng Giáo Pháp. Vào lúc ấy ở dưới nhà khói có một ngọn lửa từ trong bếp thò lên, táp nhằm mái tranh và từ đó nóc nhà phát cháy. Một mớ tranh đang cháy bị gió thổi cuốn lên trên không. Ngay vào lúc ấy có một con quạ bay ngang, đâm cổ vào cuộn tranh cháy ấy và bị lửa thiêu sống, rơi xuống giữa làng. Câu chuyện xảy diễn trước mắt các nhà Sư. Các Ngài nói, "Sự việc xảy ra quả thật là khủng khiếp, này chư Huynh, chúng ta vừa chứng kiến cái chết hãi hùng đến độ bất ngờ của con quạ. Không biết trong tiền kiếp nó đã làm gì mà ngày nay phải chịu một cái chết quá thê thảm dường ấy. Ngoài Đức Thế Tôn còn có ai có thể biết được? Để chúng ta bạch hỏi Ngài xem con quạ đã làm gì trong tiền kiếp? Bàn thảo với nhau như vậy rồi các vị tỳ khưu lên đường về hầu Phật và bạch hỏi. Đức Phật phán dạy: "Này chư Tỳ Khưu, con quạ này phải hứng chịu đau khổ y như nỗi khổ mà nó đã gây ra cho kẻ khác. Vào một thời xa xưa kia quạ này đã là một nhà nông ở thành Benares (Ba La Nại). Ngày nọ anh nông dân lùa bò vào chuồng. Nhưng con bò của anh lỳ lợm không chịu vào, mặc dầu anh hết sức cố gắng lùa nó đi. Bò chỉ đi vài bước rồi nằm xuống. Anh dùng roi đánh. Nó đứng lên, đi xa thêm chút nữa rồi nằm lỳ trở lại. Anh cố gắng hết sức, nhưng rốt cuộc vẫn thất bại hoàn toàn. Giận dữ, anh bảo con bò, "Được rồi, muốn vậy cho mầy vậy. Tốt lắm. Kể từ giờ phút này cho mầy nằm luôn đây cho mầy vừa lòng". Nói xong anh hốt rơm trải phủ lên con bò thật nhiều trông như một cây rơm, và châm lửa đốt. Trong giây lát con bò bị thiêu sống và chết ngay tại chỗ. "Này hởi các Tỳ Khưu, đó là hành vi độc ác của chính con quạ này trong quá khứ. Khi nhân bất thiện đã hội đủ duyên kỳ thì quả dữ trổ sanh. Vì lẽ ấy nó phải chịu biết bao đau đớn trong khổ cảnh một thời gian lâu dài và, vì chưa dứt nghiệp, về sau nó lại còn phải bị thiêu đốt nhiều lần trong nhiều kiếp sống". 2) Không Trộm Cắp là giới thứ nhì. Câu kinh đọc tụng để phát nguyện gìn giữ giới này là: Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp (Adinadana veramani sikkhapadam samadiyami). Không trộm cắp là không cố ý lấy, hoặc nhờ người khác lấy, vật có chủ mà không được cho đến mình. Năm chi của nghiệp trộm cắp là: 1. Một vật sở hữu của người khác, 2. Biết như vậy, 3. Sanh tâm muốn đoạt vật ấy làm sở hữu của mình, 4. Cố gắng trộm cho được và 5. Hành động trộm. Quả đương nhiên của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn, khốn khổ, thất vọng và làm thân nô lệ. Nghiệp nặng hay nhẹ tùy nơi: - Giá trị món đồ mình muốn trộm, - Nhu cầu của người mà mình muốn trộm. Điểm này có nghĩa là nghiệp được tạo nặng hay nhẹ tùy sự tai hại và niềm đau khổ mà mình gây nên cho người bị mất cắp. Cướp một bát cơm của người nghèo đang đói hẳn là gây đau khổ cho người ấy nhiều hơn là lấy, cũng một chén cơm y như vậy, của người giàu có, dư ăn và đang no. Loại tâm nằm phía sau hành động trộm cắp, tức ý muốn nào thúc giục, đưa đến hành động phạm giới. Thông thường người ta ăn cắp vì tâm tham, nhưng cũng có thể trộm đạo vì sân hận, muốn gây đau khổ cho người, và trong mọi trường hợp người ta trộm cắp vì si mê. Đức Phật dạy: "Người giữ giới trong sạch cố tránh -- dầu ở giữa rừng hay trong xóm làng -- không lấy vật gì của người khác mà không được cho đến mình. Những gì thuộc quyền sở hữu của ai khác, người ấy không nên lấy với dụng ý đem về làm của riêng..." "Lấy vật không được cho đến mình" ở đây có thể bao gồm nhiều hình thức như: - Trộm cắp, lén lút lấy của người như móc túi, khoét vách đào ngạch vào nhà lấy trộm v.v... - Cướp, công khai lấy của người bằng võ lực hoặc bằng cách hăm dọa. - Giựt, lẹ làng giựt lấy một món đồ rồi bỏ chạy, làm cho người ta không kịp trở tay giữ lại. - Gian lận, giả dối, tráo trở giành quyền sở hữu của một người khác. - Lường gạt, như buôn bán, của ít nói nhiều, giá thấp nói cao, hay đo lường cân thiếu, của hư xấu nói tốt v.v... Tất cả những hình thức trên đều phạm nhằm giới trộm cắp. 3) Không Tà Dâm là giới thứ ba. Câu kinh đọc tụng để phát nguyện gìn giữ giới này là: Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm (Kamesu micchacara veramani sikkhapadam samadiyami) Không tà dâm là gìn giữ đời sống gia đình cho được trong sạch, không lang chạ phóng túng. Có bốn chi để tạo nên giới tà dâm là: 1. Sanh tâm muốn thỏa mãn dục tính, 2. Cố gắng để thành tựu ý muốn, 3. Tìm phương tiện để đạt mục tiêu, và 4. Hành động thỏa mãn dục tính. Quả đương nhiên của nghiệp tà dâm là có nhiều kẻ thù, cuộc sống giữa vợ và chồng không đầm ấm an vui, tái sanh không tốt. Đức Phật dạy:"Người giới đức trong sạch cố tránh tà hạnh và cố gắng tự chế. Người ấy không lăng loàn lang chạ với người còn sống dưới sự bảo bọc của cha, mẹ, anh, chị hay họ hàng, với người có chồng, với người đã hứa hôn, hoặc với người mà xã hội không cho phép" (Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, X, 176) Về phương diện luân lý, giới này nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, không để cho người ngoài xâm phạm vào tình trạng thanh bình an lạc trong nhà, tạo sự tín cẩn lẫn nhau và siết chặt tình nghĩa giữa vợ và chồng. Về mặt đạo đức, giới này giúp làm giảm thiểu năng lực có chiều hướng tự nhiên lan rộng của dục vọng. Đàng khác, người quyết tâm nghiêm túc giữ giới này cũng tăng trưởng nơi mình đức hạnh từ khước và tự chế của nếp sống thanh cao. Lẽ dĩ nhiên, đời sống độc thân của các vị tu sĩ chân chánh là hình thức trong sạch, đáng được quý trọng nhất, vì các Ngài có thể tận dụng tất cả năng lực của mình để phục vụ kẻ khác. Tuy nhiên, Đức Phật là vị giáo chủ thực tế. Ngài không bao giờ trông chờ hàng tín đồ tại gia cư sĩ sống cuộc sống của các bậc xuất gia. Hiểu biết bản năng và những kích thích của đời sống, khát vọng và những thúc giục của con người, Đức Bổn Sư không ép buộc người Phật Tử cư sĩ sống tuyệt đối độc thân như các vị tỳ khưu. Nhưng Ngài khuyên chúng ta nên thận trọng, đừng để sai lầm làm nô lệ cho thể xác và do đó, làm giảm suy phẩm giá con người. 4) Không Vọng Ngữ là giới thứ tư. Câu kinh đọc tụng để phát nguyện gìn giữ giới này là: Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự vọng ngữ (Masavada veramani sikkhapadam samadiyami). Không vọng ngữ là không nói lời sai quấy, không tạo khẩu nghiệp bất thiện, tức luôn luôn có lời nói chân chánh và đồng thời cũng trau giồi thiện khẩu nghiệp. Chúng ta có khuynh hướng xem nhẹ khẩu nghiệp vì hậu quả của lời nói thường không biểu hiện tức khắc và hiển nhiên như thân nghiệp. Nhưng nếu chịu khó bình tâm suy tư ắt chúng ta nhận thức rằng lời nói có tầm quan trọng và khả năng tạo hậu quả vô cùng to tát -- trong việc thiện cũng như trong chiều hướng bất thiện. Lời nói có thể kích thích, khơi dậy căm thù tiêu diệt đời sống, gây chiến tranh mà cũng có khả năng mở mang trí tuệ, hàn gắn chia rẽ và đem lại thanh bình an lạc. Từ ngàn xưa lời nói vẫn được xem như lưỡi dao bén cả hai bề mà người xử dụng cần phải hết sức thận trọng. Ngày nay, với tiến bộ của những phương tiện truyền thông, hậu quả của lời nói, tốt cũng như xấu, trổ sanh càng nhanh chóng và sâu xa không thể lường. Lời nói quả thật là một khả năng của con người có gía trị vô cùng trọng đại. Nếu con người có thể kiểm soát được cái lưỡi không xương của mình thì nhân loại chẳng những tránh được bao nhiêu phiền phức rối ren và đau khổ mà đời sống trên thế gian này cũng được tốt đẹp, thoải mái dễ chịu, đáng được sống hơn bao nhiêu! Lời nói chân chánh không đượm nhuần những tư tưởng bất thiện như tham lam, sân hận, ganh tỵ, ngã mạn v.v... Bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn và nói nhảm nhí. Như vậy, không vọng ngữ là: a. không nói dối, b. không nói đâm thọc, c. không nói thô lỗ cộc cằn và d. không nói nhảm nhí. a. Không nói giả dối, tức chuyện có nói không, chuyện không nói có, mà luôn luôn nói lời chân thật, là pháp tu học đầu tiên trong giới vọng ngữ. Về điểm này Đức Bổn Sư dạy: "Người nghiêm túc trì giới này cố tránh và kiêng cữ, không nói lời giả dối. Người ấy nói lời chân thật, tận tâm sống chân thật, chắc chắn, đáng được tin cẩn, không làm cho người khác hiểu sai sự thật. Giữa buổi họp hay giữa đám đông, trong giới thân bằng quyến thuộc hay ngoài xã hội, hoặc trước triều đình khi được gọi làm nhân chứng cho một việc gì, người ấy sẽ nói, "Tôi không biết" nếu thật sự không biết, và nếu biết, người ấy nói, "Tôi biết". Người ấy nói, "Tôi không thấy gì" nếu thực sự không thấy, và nói, "Tôi có thấy" nếu thật sự có thấy. Như vậy, người ấy không bao giờ nói dối vì lợi ích cho mình, vì lợi ích cho một người thân, hoặc vì bất cứ lợi ích nào". (Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, X, 176) Lời tuyên ngôn trên của Đức Phật rõ ràng bao gồm cả hai sắc thái của giới không nói dối. Sắc thái tiêu cực là "không nói giả dối" và sắc thái tích cực là "nói lời chân thật". Có bốn chi để tạo nghiệp nói dối là: 1. Có sự giả dối, không chân thật, 2. Sanh tâm muốn cho người khác hiểu sai sự thật, 3. Cố tình tạo sự hiểu biết sai lạc cho người khác và 4. Thốt ra lời giả dối. Quả đương nhiên của nghiệp nói dối là bị mắng chưởi nhục mạ, tánh tình đê tiện, không ai tín nhiệm và miệng hôi thối. Tư tưởng bất thiện nằm phía sau lời nói giả dối, hay tâm sở nằm trong ý định làm cho người khác hiểu sai sự thật, có thể khác nhau. Thí dụ như nói dối để được lợi ích vật chất như tài sản, địa vị, quyền thế, danh vọng v.v... cho mình hay cho người thân mình, là do tâm tham làm động cơ thúc đẩy. Nói dối vì cố tình hại người là do tâm sân v.v... Nói lời giả dối có hại cho người mà cũng hại cho chính mình. Xã hội chỉ có thể tồn tại êm thắm tốt đẹp trong sự tín cẩn lẫn nhau khi mà người này có lý do để tín nhiệm người khác. Nếu chỉ có ngờ vực, hoài nghi, không ai tin ai, giữa người và người chỉ có giả dối lường gạt lẫn nhau, xã hội ấy ắt phải sa vào vực thẳm của rối loạn. Tật nói dối còn có ảnh hưởng đến tâm tánh tự nhiên của mình. Khi đã nói dối một lần, ta bị bắt buộc phải nói dối nữa để che đậy cái dối trước và như thế, tình trạng này gài chặt người nói dối vào một loại cạm bẫy rất chằng chịt, không có lối thoát. Lắm lúc, đến mức độ nào, chính người nói dối cũng không còn biết chắc đâu là sự thật. Khi được thực hành đến mức cùng tột, hạnh chân thật trở thành một Ba La Mật (Sacca Paramitta, Ba La Mật Chân Thật) tức là một trong mười pháp có khả năng đưa người thực hành thuần thục từ bờ mê đến bến giác. Một vị Bồ Tát -- tức người đã phát nguyện sẽ trở thành Phật -- luôn luôn thành thật, trong sạch và có lối sống chánh trực. Phương châm của chư vị Bồ Tát là, "Nói sao làm vậy, làm sao nói vậy". Chân thật là kim chỉ nam của Bồ Tát. Ngài tự xem có bổn phận phải luôn luôn giữ lời. Trước khi hứa với ai điều gì Ngài thận trọng trong suy nghĩ. Khi đã thốt ra lời rồi thì Ngài quyết định giữ cho tròn lời hứa, dù phải hy sinh mạng sống cũng ưng chịu. Không giả dối, không chút sai ngoa giữa thân, tâm, và lời nói. Đời tư như thế nào đời công như thế ấy, Bồ Tát không dùng lời nịnh bợ để mua lòng người khác, không hăng hái nhất thời để được thế gian ca tụng, không khoe khoang điều tốt cũng không che đậy những điểm xấu của mình. Ngài khen tặng những ai đáng khen, chê trách những người đáng chê, và làm vậy không vì lý do nào khác hơn là vì lòng từ bi. Túc Sanh Truyện Hiri Jataka (số 363) có ghi lại lời khuyên của Bồ Tát: "Phải thực hiện cho kỳ được những điều đã hứa. Phải biết khước từ, không hứa những điều không làm được. Bậc Thiện Trí không muốn thân cận với những người nói dối". Túc Sanh Truyện Maha Sutasoma Jataka (số 537) cũng có ghi lại chuyện tích một vị Bồ Tát hy sinh mạng sống để giữ lời hứa: "Giống như sao mai mà ta thấy buổi sáng trên trời. Ngày nào như ngày ấy, lặng lẽ xuất hiện nơi vị trí của nó, không sai chạy. Năm tháng trôi qua, sao mai vẫn y hẹn. Lời nói của bậc Thiện Trí Thức cũng phải đúng như vậy. Không khi nào lệch sai sự thật, không hề sai hẹn". Sở dĩ chư vị Bồ Tát rất quan tâm đến hạnh chân thật như vậy là vì ảnh hưởng của sự giả dối rất rộng rãi và thâm sâu. Giả dối là một trở ngại quan trọng trên đường giác ngộ. Vì sao? -- Giác ngộ là thấu triệt sự thật, là thấy rõ thực tướng của sự vật. Còn nói dối là nói sai sự thật, cố tình làm cho người khác hiểu sai sự thật. Giác ngộ hay Chứng Ngộ Chân Lý, là trọn vẹn tự hòa đồng với sự thật -- cả tinh thần lẫn thể xác -- trọn vẹn tự hòa đồng với những gì thật sự là vậy. Trong lúc ấy, người giả dối nghĩ một đàng nói hay làm một nẻo, nhận cái giả làm sự thật. Con đường giả dối hẳn đi ngược chiều với giác ngộ. Như vậy, người cố tránh, cố kiêng cữ lời nói giả dối đã vượt qua khỏi phạm vi luân lý của đời sống xã hội. Người Phật Tử sống trong xã hội. Trong phạm vi luân lý của người đời, để cho sự giao dịch giữa người và người trôi chảy suông sẻ lắm khi có những lời nói mà người nói không bao giờ nghĩ đến. Vấn đề ở đây là trọn vẹn tự hòa đồng với chân lý. Bồ Tát không bao giờ nói dối, nhưng cũng không nói tất cả sự thật. Sự thật nào không đem lại lợi ích và hạnh phúc cho kẻ khác thì Ngài không nói ra. Trái lại, sự thật nào có lợi cho người khác, dầu có bị thiệt hại đi nữa Ngài cũng nói. b. Không nói đâm thọc, pháp tu học thứ nhì của giới vọng ngữ, là không đi đầu này bày điều nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha đầu này nhằm tạo thù hằn, hờn giận hay chia rẽ. Danh từ "pisunavacca", được Đức Phật dùng ở đây, có nghĩa là lời nói có tác dụng bẻ gãy tình bằng hữu. Thành ngữ trong dân gian ta thường nói là "đâm bị thóc, chọc bị gạo". Đức Phật dạy: "Người nghiêm túc trì giới này cố tránh và kiêng cữ, không dùng những lời lẽ có tính cách đâm thọc. Điều gì nghe ở đây, người ấy không lặp lại nơi khác nhằm tạo chia rẽ. Điều gì nghe nói ở nơi khác, người ấy không lặp lại ở đây nhằm tạo chia rẽ. Như vậy, người ấy đoàn kết những ai chia rẽ và khuyến khích những ai đoàn kết. Không khí thuận hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ, thỏa thích và phấn khởi trong tình trạng hòa hợp và, bằng lời nói, cố gắng gieo trồng mầm mống thuận hòa". (Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, X, 176) Có bốn chi để tạo nghiệp nói đâm thọc là: 1. Những người sẽ là nạn nhân của sự chia rẽ, 2. Sanh tâm muốn phân ly những người ấy, hay muốn lấy lòng một người, 3. Cố gắng tìm phương cách để phân ly và, 4. Thốt ra lời nói phân ly. Động cơ thúc đẩy đến hành động này thường là tâm bất mãn, sân hận hay ganh tỵ. Thấy ai thành công hay thấy người có giới đức được tôn trọng thì sanh tâm muốn hạ uy tín hay làm suy giảm giá trị. Đôi khi vì muốn ám hại hay muốn lấy lòng một người, cũng có khi chỉ vì thỏa thích muốn thấy người ta giận dỗi, cấu xé lẫn nhau. Đứng về phương diện nghiệp báo, quả của lời nói đâm thọc rất là tai hại. Tâm sân, làm nguyên nhân và tạo duyên cho lời nói đâm thọc, đã là một căn bất thiện rồi, người có ác ý, cố tình gây chia rẽ thường nghiền ngẫm suy tư, tìm lời lẽ để châm chích cho đúng lúc, đúng tâm lý v.v... càng ấp ủ lâu ngày trong lòng nghiệp ác càng nặng. Nếu cố tâm bày điều giả dối để thêm bớt thì lại còn tạo thêm khẩu nghiệp giả dối. Cả hai -- nói đâm thọc và nói dối -- phối hợp lại tạo thành khẩu nghiệp bất thiện vô cùng tai hại. Người nói đâm thọc tựa hồ như loài muỗi, hút nọc độc ở đầu này rồi đến ve vãn đầu khác, hút một ít máu và, trong lúc ấy, không quên để lại một phần nọc độc của mình. Miệng nói ngọt ngào như mật, nhưng tâm thì đượm nhuần chất độc. Lời chân chính không tạo phiền phức cho ai mà chỉ đem lại hòa bình và an tĩnh. Thay vì gieo rắc mầm mống chia rẽ phân ly, người ấy luôn luôn tạo hòa khí giữa những người bất đồng ý kiến, xây dựng tình bằng hữu giữa những người thù nghịch. Trong xa hội loài người, chúng ta không thể sống riêng rẽ một mình và không tùy thuộc lẫn nhau. Vậy, trong sự lợi ích kế cận nhất của mỗi người chúng ta hãy cố gắng tập sống chung với nhau trong bầu không khí thuận hòa, trong tình huynh đệ và trong sự điều hòa. c. Không nói lời thô lỗ cộc cằn, mà chỉ ăn nói thanh tao nhã nhặn là pháp tu học thứ ba của giới vọng ngữ. Pháp học này được Đức Thế Tôn dạy như sau: "Người nghiêm túc trì giới này cố tránh và kiêng cữ, không nói những lời thô lỗ cộc cằn. Người ấy chỉ thốt ra những lời dịu hiền, thanh nhã, dễ mến, những lời thành thật và lễ độ, thân hữu và làm vui lòng nhiều người". Có ba chi để tạo nghiệp ăn nói thô lỗ là: 1. Có một đối tượng, như một người khác, 2. Có tư tưởng cộc cằn, thô lỗ hay sân hận phát sanh, 3. Thốt ra lời thô lỗ. Quả của nghiệp này là không làm gì ai mà cũng bị ghét. Lời thô lỗ biểu lộ tâm hung tợn và được thốt ra trong sự nóng giận. Tánh cách thô bạo của lời nói này có biểu hiện dưới nhiều hình thức như la rầy, mắng nhiếc, chưởi rủa, chưởi thề hay nói xiêng xỏ v.v...tất cả đều phát sanh từ tâm bất mãn, sân hận và nhằm gây phiền muộn khổ đau cho người khác. Những cơn nóng giận thường bộc phát đột ngột, không có sự nghiền ngẫm suy tính, nên hậu quả không đến nổi trầm trọng lắm. Mặc dầu vậy, vì nó có khuynh hướng tái diễn, nếu chúng ta lơ đễnh để cho nó lặp đi lặp lại nhiều lần ắt thành thói quen và từ đó, trở thành tâm tánh sân hận và hung bạo thì rõ ràng là một hiểm họa. Lời nói thô bạo biểu lộ sự nóng giận. Nóng giận lúc nào cũng là một tai hại, cho người nghe cũng như cho người nói, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Vào thời Đức Phật có vài vị tỳ khưu thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Đức Thế Tôn khuyên: "Không nên dùng lời thô lỗ cộc cằn. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô. Tiếng nói gây thù trả oán thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn hại như gây thương tích". (Kinh Pháp Cú, câu 133) Tự kiềm chế, cố tránh và kiêng cữ những lời thô bạo trong cơn nóng giận là trau dồi hạnh nhẫn nhục. Đó là chịu đựng những lời khiển trách khắc khe và khoan hồng bỏ qua những lỗi lầm sai quấy của kẻ khác, tôn trọng những quan điểm dị đồng và cảm thông những thiếu sót của người. Tự kiểm soát thân tâm là cái chìa khóa để mở cửa đưa vào tình trạng an lành hạnh phúc. Để cho những cảm xúc vô độ lượng, vô trật tự và đượm nhuần sân hận điều khiển mình là tự đặt mình vào trong trạng thái nô lệ tệ hại nhất. Túc Sanh Truyện số 269 có thuật tích chuyện Bồ Tát, tiền thân của Đức Phật Thích Ca, trong kiếp sống ấy là vua xứ Benares (Ba La Nại). Đức Hoàng Thái Hậu mẹ Ngài là người hiền lương nhưng đôi khi ăn nói cộc cằn. Hôm nọ, Vua cùng Hoàng Thái Hậu và đoàn tùy tùng dạo chơi trong ngự uyển. Bên đàng có con chim ác là, màu sắc xanh tươi lộng lẫy. Nhưng mỗi khi cất tiếng lên thì giọng kêu chát chúa, ai nấy bịt tai, ngoảnh mặt than phiền. Một lúc sau, đến nơi khác, có con chim chích chòe, lông đen xấu xí mà tiếng hát lảnh lót thanh tao dịu ngọt, ai cũng thích thú lắng nghe, ai cũng trông chờ nó hát thêm để thưởng thức. Nhân cơ hội đó Vua mở lời khuyên mẹ: "Kính Mẫu Hậu thân mến, tiếng kêu của con chim ác là thật là chát chúa khó chịu, ai cũng muốn xa lánh. Thật không ai thích nghe lời thô lỗ. Chim chích chòe trái lại, mặc dù đen đúa xấu xa nhưng đã thu hút mọi người bằng giọng hát thanh nhã dịu hiền. Như vậy, lời nói của ta phải là cẩn ngôn, êm dịu, hiền lành, đầy ý nghĩa v.v..." Do lời nhắc nhở của người con sáng suốt, kể từ đó về sau Hoàng Thái Hậu gìn giữ lời ăn tiếng nói và trở nên thanh nhã dịu hiền. d. Không nói nhảm nhí, pháp tu học thứ tư của giới vọng ngữ, là không nói lời vô ích mà chỉ nói những lời đem lợi ích đến người. Pháp học này được Đức Phật dạy như sau: "Người nghiêm túc trì giới này cố tránh và kiêng cữ, không nói lời nhảm nhí vô ích. Người ấy nói đúng lúc, đúng như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo Pháp và Giới Luật. Lời nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra đúng lúc, hữu lý, hòa nhã và đầy ý nghĩa". Có hai chi để tạo nghiệp nói nhảm nhí là: 1. Sanh tâm muốn nói lời nhảm nhí vô ích và 2. Thốt ra lời. Quả báo của nghiệp nói nhảm nhí là thân thể không nở nang đều, như có một bộ nào trong cơ thể yếu kém, lời nói không rõ ràng minh bạch làm cho người nghe không tin. Lời nói nhảm ắt không có ý nghĩa, nông cạn và không đem đến lợi ích nào. Những lời lẽ như thế ấy chỉ khơi động vọng tâm. Đức Phật khuyên nên hạn chế những ngôn từ thuộc loại này. Đối với hàng xuất gia, lời nói phải thật là cẩn ngôn, phải được chọn lọc và chỉ nói những điều gì thích hợp với Giáo Pháp. Ngài dạy: "Này chư Tỳ Khưu, khi các con tụ họp đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm: hoặc thảo luận về Giáo Pháp, hoặc im lặng cao thượng". (Majjahima Nikaya, Trung A Hàm, 26) Thảo luận về Giáo Pháp là đề cập đến Con Đường dẫn đến chứng ngộ Chân Lý cùng tột, Niết Bàn, và do đó, quả thật là hữu ích. Đàng khác, trầm lặng là một hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn. Khi ẩn rút vào trạng thái im lặng ta hoàn toàn đơn độc để nhìn vào bên trong ta, để tận tường thấy rõ chúng ta như thật sự chúng ta là vậy. Chừng đó chúng ta có thể học được phương cách vượt qua những khuyết điểm và những giới hạn của cuộc sống bình thường. Hàng cư sĩ tại gia, vì nhu cầu xã hội, còn cần phải nói năng lịch thiệp trong câu chuyện hằng ngày. Mặc dầu vậy, Đức Phật dạy không nên lơ đễnh đi quá xa, vì người chú nguyện đi trên con đường giải thoát phải hết sức thận trọng phân biệt điều nào sẽ dẫn đi đâu và phải luôn luôn canh phòng "anh chàng giả dối" sâu ẩn lẫn trốn bên trong chúng ta một cách rất là kín đáo. Người tinh nghiêm trì giới vọng ngữ không nói lời nhảm nhí vô ích. Vào thời Đức Phật có tên sát nhân khát máu nọ gia nhập vào đảng cướp, gây nhiều tội ác và về sau trở thành đao phủ thủ của triều đình. Nhờ Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) cảm hóa, tánh tình anh đổi hẳn từ hung tàn bạo ngược trở nên hiền lành lương thiện và sau khi chết, tái sanh vào cõi Trời nhàn lạc. Đức Phật giải thích rằng sở dĩ anh được tái sanh tốt đẹp là nhờ lời khuyên dạy hữu hiệu, đúng lúc, đượm nhuần từ bi và trí tuệ của bậc đạo đức cao thượng, và Ngài dạy: "Chỉ một lời nói hữu ích, làm cho người nghe an lạc và trở nên trong sạch, còn quý hơn cả ngàn tiếng nói vô ích". (Kinh Pháp Cú, câu 100) Không phải nói nhiều mà chứng tỏ rằng mình học rộng biết nhiều. Cũng không phải nói nhiều mà mình tạo lợi ích cho mình hay cho ai khác. Kinh sách Tây Tạng có lời dạy rằng nói nhiều lắm khi đưa đến hậu quả tai hại, như trường hợp chim két, vì ham nói mà phải chịu cảnh chim lồng. 5) Không Dùng Chất Say là giới thứ năm. Câu kinh đọc tụng để phát nguyện gìn giữ giới này là: Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say (Sura-meraya-majjapama-datthana veramani sikkhapadam samadiyami). Không dùng chất say là không uống rượu mạnh và không dùng bất luận chất say nào có thể làm cho trí não lu mờ, mất sáng suốt. Mặc dầu uống chút rượu không phải là một tệ hại trọng đại, nhưng trong phần lớn các trường hợp, người uống rượu không biết đến lúc nào phải ngừng, và khi đã quá chén rồi thì mất lý trí, dễ bị cảm kích, không còn kiểm soát được lời nói và hành động của mình nữa. Từ đó, người quá chén có thể phạm bất cứ giới nào mà trước kia, lúc bình thường, mình cố gắng gìn giữ. Một câu chuyện thuật rằng: Một chàng kia, sau khi ăn học thành tài, từ phương xa trở về quê nhà. Đi ngang qua một thành phố nọ, anh nghe tiếng đồn rằng nơi đây có một lâu đài vô cùng đẹp đẽ, bên trong lại có nhạc kịch mê ly. Anh lần mò tìm đến và xin vào. Ở một cửa nọ người ta bảo anh rằng muốn vào thì không khó gì, nhưng trước khi vào anh phải giết một con vật sẵn có tại đó. Anh nghĩ thầm, "Dạo chơi trong cung điện, nghe âm nhạc và xem diễn kịch thì quả thật là rất thích thú. Nhưng phải giết một sinh mạng để mua vui thì không đành". Anh từ chối, không xin vào và tìm đến cửa khác. Ở đây thì anh được cho biết rằng muốn vào cửa phải có hành động trộm cắp. Anh không chịu. Qua cửa thứ ba người ta bắt buộc anh phải làm điều tà dâm trước khi được cho vào, và nơi cửa thứ tư thì phải nói vọng ngữ. Anh từ chối luôn. Đến cửa thứ năm, nhỏ hơn bốn cửa kia, anh được cho biết rằng muốn vào thì phải uống rượu. Anh không chịu. Nhưng người gác cửa nài nỉ rằng uống chút ít rượu thì không hại gì ai mà được xem cung điện và thưởng thức nhạc kịch thì thật là thú vị, và mời anh nếm thử một giọt rượu, chỉ một giọt thôi. Anh nghĩ thầm, "Uống rượu là một hành động xấu. Nhưng nếm thử một giọt thì cũng không đến đỗi là lỗi lầm trọng đại. Ta hãy thử một chút xem sao". Anh chàng liền bằng lòng nếm thử giọt rượu. Thấy ngon miệng mà không có chút chi hại, anh liền nhắm thêm một hớp nữa, rồi một hớp nữa. Ngon miệng, anh uống thêm rồi thêm nữa, một hồi đến quá chén. Và lúc bấy giờ thì mất bình tĩnh, không tự kềm chế được, anh hăng hái lần lượt làm những điều mà trước kia anh biết là xấu xa tội lỗi và đã can đảm cương quyết từ chối. Anh phạm bao nhiêu lỗi lầm chỉ vì xem thường một giọt rượu. Trên đây là năm giới, căn bản và tối thiểu, mà người Phật Tử tự nguyện nghiêm trì. Người đã giữ gìn trong sạch năm giới này là một phước lành cho những ai sống quanh mình mà cũng tạo thiện nghiệp cho chính mình. Người ấy sẽ tái sanh vào những cảnh giới nhàn lạc và thọ hưởng quả lành. Hai Sắc Thái Của Giới Thoáng nhìn vào người không quen với giới luật có thể lầm nghĩ rằng Giới (sila) trong Phật Giáo là hoàn toàn tiêu cực, vì được phát biểu và trình bày dưới hình thức tiêu cực: những gì nên tự chế và nên kiêng cữ, không làm, như không sát sanh, không trộm cắp, không ... không...v.v... Nhưng trong thực tế Giới cũng là nếp sống kỷ cương được xem như những tảng đá vững chắc cẩn trên con đường đưa đến trạng thái hoàn toàn an tĩnh, hạnh phúc tuyệt đối: những gì nên làm. Và đó là sắc thái tích cực của giới. Khi đặt ra những giới luật, không phải Đức Phật hàm ý rằng chỉ cần tránh những hành động bất thiện là đủ, mà đó là tuần tự diễn tiến một cách hợp lý để giữ thân tâm trong sạch, đúng như câu kinh Pháp Cú số 183: Sabbapapassa akaranam - kusalassa upasampada. Sacittapariyodapanam - etam buddhana sasanam. "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo". "Tránh những điều ác, làm các việc lành, thanh lọc tâm. Đó là giáo huấn của chư Phật". Trong lời dạy này, phần đầu: "Tránh những điều ác", có tính cách tiêu cực. Hai phần sau: "Làm các việc thiện" và " thanh lọc tâm" là tích cực. Hai phần sau -- làm việc thiện và thanh lọc tâm -- chỉ có thể thành tựu viên mãn nếu phần đầu -- tránh làm điều ác -- được hoàn tất. Nên ghi nhận rằng khi phân lời dạy trên làm ba giai đoạn, Đức Phật không nhắm vào thứ tự thời gian mà vì đó là điều hợp lý: không phải làm xong giai đoạn lánh xa các hành động bất thiện rồi mới bắt đầu làm các việc thiện và thanh lọc tâm. Tâm lý học Phật Giáo dạy rằng trong khi ta cố tránh để khỏi phạm một giới nào, tác ý quan trọng của chập tư tưởng "quyết định" dĩ nhiên là tự kiềm chế, tự hạn định, kiêng cữ, không làm việc ấy -- sắc thái tiêu cực. Nhưng chung quanh chập tư tưởng ấy còn có bao nhiêu chập tư tưởng khác thật sự tích cực. Thí dụ như khi ta cố gắng để tránh khỏi phạm giới sát sanh, chập tư tưởng chánh yếu là "đừng", "cố tránh", không sát sanh (tiêu cực). Nhưng trong lúc ấy cũng có những chập tư tưởng khác đồng phát sanh như tâm từ, tâm bi, lòng quảng đại khoan hồng v.v... và đó rõ ràng là những tư tưởng thật sự tích cực. Lại nữa, nghiêm túc trì giới cũng có nghĩa là vô úy thí (abhayadana, "dana = bố thí" + "a = không" + "bhaya = sợ hãi"), bố thí sự an toàn, tình trạng không lo sợ cho người khác. Có ai thích sống chung với những người ăn nói giả dối, đâm thọc, thô lỗ cộc cằn, với hạng người sát sanh, trộm cắp, lăng loàn, say sưa hư hỏng không? - Chắc là không. Tại sao? - Vì gần họ ta không cảm thấy an toàn, luôn luôn phải lo sợ, lúc nào cũng phải đề phòng. Như vậy, ta thích ở gần những người được xem là chỉ có những đức tính tiêu cực, vì những người này không làm cho mình lo âu sợ sệt. Nói cách khác, người giữ giới trong sạch bố thí trạng thái an toàn cho những ai sống quanh mình. Bản Tạng Chú Giải xem danh từ Sila, giới, đồng nghĩa với Samadhana, hòa diệu, điều hòa, nhịp nhàng hòa hợp. Đây là sống hòa điệu với người khác và với chính mình, trên bình diện xã hội, tâm lý, nghiệp báo, cũng như trong công phu hành thiền của mình. Người không bao giờ làm tổn thương đến sự sống của bất luận chúng sanh nào mà luôn luôn nâng đỡ, giúp cho luồng sống của mọi chúng sanh trôi chảy suông sẻ, người không trộm cắp mà luôn luôn mở rộng tâm quảng đại bố thí, người không lang chạ phóng túng mà luôn luôn có đời sống gia đình trong sạch, người luôn luôn chân thật, luôn luôn thanh nhã, luôn luôn có lời nói hữu ích và đem lại tình trạng hòa hợp, người như thế ấy chắc chắn đem lại tình trạng điều hòa cho sự giao dịch giữa người và người, trong một xã hội mà quyền lợi cá nhân quả thật là khác biệt với nhau, đôi khi còn đối nghịch. Về phương diện tâm lý, người nghiêm trì giới đức tránh cho mình những xung đột nội tâm do tội lỗi gây nên, những hiểm họa bị lương tâm cắn rứt và nhờ đó, tâm trí được điều hòa, an lạc. Đối với nghiệp báo, người giữ giới trong sạch có những hành động và lời nói nhịp nhàng, hòa hợp với định luật nhân quả thiên nhiên của vũ trụ, và điều này tạo những hậu quả thuận lợi cho cuộc sống tương lai trong vòng luân hồi. Thực hành giới luật một cách tiêu cực là không tạo nghiêp bất thiện vì thân khẩu trong sạch và phần nào tránh cho ý những tư tưởng uế trược tội lỗi. Trì giới trên phương diện tích cực là tạo thiện nghiệp, tạo những điều kiện thuận lợi, những hoàn cảnh khả dĩ nâng đỡ ta trên con đường, từ kiếp sống này sang kiếp khác, cho đến ngày thành đạt Đạo Quả Niết Bàn. Giới là nền tảng vững chắc cho mọi tiến bộ tinh thần. Giới hạnh càng trang nghiêm tâm càng thanh tịnh. Tâm thanh ý tịnh càng dễ an trụ. Tâm định càng kiên cố càng dễ khai triển trí tuệ. Một cái tâm ô nhiễm không bao giờ thích nghi để thâu nhận Chân Lý Cao Thượng nhất của đời sống. Vì lẽ ấy sau khi truyền giới cho thiện tín xong vị Sư truyền giới có lời khuyên như sau: "Chư thiện tín sau khi đã thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới nơi Tam Bảo rồi hãy ráng vâng giữ hành theo cho được trong sạch đến trọn đời, chẳng nên dễ duôi." và: "Các chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới, các chúng được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy nên chư thiện tín phải ráng thọ trì giới luật được trong sạch, đừng để lấm nhơ". Nên ghi nhận rằng mặc dầu Giới được ban hành như những quy tắc luân lý, đạo đức nhằm tạo thân nghiệp và khẩu nghiệp trong sạch, nhưng phẩm hạnh tuyệt hảo trong sạch tự nó chỉ là phương tiện, là nền tảng vững chắc để đi đến mục tiêu. Mục tiêu tối hậu là giải thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau của đời sống, là vượt đến hạnh phúc trường cửu, Niết Bàn. Hương Thơm Của Giới Đức Lúc bấy giờ, vào một buổi chiều Đức Ananda (A Nan) xuất thiền, đến gần nơi Đức Phật ngồi và bạch rằng, "Bạch Đức Thế Tôn, có ba thể chất mà mùi thơm chỉ có thể bay theo chiều gió, không thể bay nghịch. Đó là chất gì? Hương của rễ cây, hương của gỗ trầm và hương của hoa. Bạch Đức Thế Tôn, đó là ba thể chất mà mùi thơm có thể bay theo chiều gió, không thể bay ngược chiều. Nhưng Bạch Hóa Đức Thế Tôn, có chăng một thể chất mà mùi thơm có thể bay ngược chiều gió, hay có chăng một thể chất mà mùi thơm có thể vừa bay theo, vừa bay ngược chiều gió? - Này Ananda, có một thể chất mà hương thơm bay theo chiều gió, có một thể chất mà hương thơm vừa bay theo vừa bay ngược chiều gió. - Bạch Đức Thế Tôn, thể chất nào mà hương thơm vừa bay theo vừa bay ngược chiều gió? - Này Ananda, nếu trong một xóm làng hay trong một thành phố, có người kia, nam hay nữ, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nếu người kia tránh xa những hành động sát sanh, những hành động trộm cắp, những hành động tà dâm, những lời giả dối và những lúc dễ duôi dùng những chất say. Nếu người ấy sống đời đạo hạnh, nếu người ấy sống đúng theo chánh mạng, sống với tâm bố thí trong sạch, nếu người ấy rộng rãi quảng đại, nếu người ấy sống một cách cởi mở, nếu người ấy tìm thỏa thích trong sự cúng dường các bậc khả kính, thì ở bất luận nơi nào trên thế gian, tất cả những vị tỳ khưu, tất cả những vị ba la môn, đều tán dương người ấy. Nếu trong một xóm làng, hay trong một thành phố, có người kia, nam hay nữ, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng ... nếu người ấy tìm thỏa thích trong sự cúng dường những bậc khả kính, những hành động như thế ấy, này Ananda, là thể chất mà hương thơm vừa bay theo vừa bay ngược chiều gió. Dạy xong, Đức Phật đọc lên câu kệ: "Hương thơm của hoa không thể bay ngược chiều gió, trầm hương cũng vậy, mùi thơm của gỗ tagara và của hoa lài cũng thế. Nhưng hương thơm của giới đức bay ngược chiều gió, danh thơm của người giới đức bay thấu khắp nơi". (Kinh Pháp Cú, câu 54) -----*----- Nghi Thức Thọ Trì Tam Quy Ngũ Giới Lễ Bái Đức Thế Tôn: Namo tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa Con xin hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Đức Ứng Cúng, Đức Chánh Biến Tri (đọc ba lần) Cung Thỉnh Chư Tăng Truyền Tam Quy Ngũ Giới: Okasa aham bhante, visum visum rakkhanatthaya tisaranena saha panca silani. Dutiyampi visum visum ... silani Tatiyampi visum visum ... silani Bạch hóa chư Đại Đức Tăng, con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích. Bạch hóa chư Đại Đức ... lợi ích, lần thứ nhì Bạch hóa chư Đại Đức ... lợi ích, lần thứ ba Chư Tăng Truyền Tam Quy (Vị Sư truyền giới đọc, Thiện tín đọc theo): Buddham saranam gacchami Con xin quy y Phật Dhammam saranam gacchami Con xin quy y Pháp Sangham saranam gacchami Con xin quy y Tăng Dutiyampi Buddham saranam gacchami Con xin quy y Phật, lần thứ nhì Dutiyampi Dhammam saranam gacchami Con xin quy y Pháp, lần thứ nhì Dutiyampi Sangham saranam gacchami Con xin quy y Tăng, lần thứ nhì Tatiyampi Buddham saranam gacchami Con xin quy y Phật, lần thứ ba Tatiyampi Dhammam saranam gacchami Con xin quy y Pháp, lần thứ ba Tatiyampi Sangham saranam gacchami Con xin quy y Tăng, lần thứ ba. Chư Tăng Truyền Ngũ Giới (Vị Sư truyền giới đọc, Thiện tín đọc theo): Panatipata veramani sikkhapadam samadiyami Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh. Adinaddana veramani sikkhapadam samadiyami Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp. Kamesu micchacara veramani sikkhapadam samadiyami Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm. Musavada veramani sikkhapadam samadiyami Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối (vọng ngữ). Sura-meraya-majja-pamadatthana veramani sikkha padam samadiyami Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và dùng các chất say. Vị Sư truyền giới khuyên dạy: - Chư thiện tín đã thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới nơi Tam Bảo, hãy ráng vâng giữ hành theo cho được trong sạch đến trọn đời, chẳng nên dễ duôi. Người thọ giới: - Dạ, xin vâng. Vị Sư truyền giới giảng giải về quả báo của công đức trì giới: - Các chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giải thoát nhập Niết bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy, chư thiện tín hãy ráng thọ trì giới luật cho được trong sạch, đừng để lấm nhơ. Người thọ giới:HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TINH THAT KIM LIEN.THICH NU CHAN TANH.AUSTRALIA,SYDNEY.22/6/2021.

No comments:

Post a Comment